(CSPLO) – Trong suốt những năm qua, cộng đồng doanh nghiệp nhỏ và vừa đã không ngừng phát triển cả về số lượng và chất lượng, đóng góp 48% vào GDP cả nước và tạo ra 50% số lượng việc làm của toàn nền kinh tế. Qua đó, các doanh nghiệp vừa và nhỏ (SME) chiếm 90% lượng doanh nghiệp và hơn 50% lực lượng lao động…Thế nhưng, để đương đầu với những áp lực và nắm bắt cơ hội trong môi trường kinh tế nhiều biến động của năm 2023, Viện Nghiên cứu Chính sách pháp luật&Kinh tế hội nhập (IRLIE), Viện Nghiên cứu Thị trường – Truyền thông Quốc tế (IMRIC) và Viện Khoa học Chính sách và Pháp luật (ILPS) sẽ tổ chức Tọa đàm khoa học ““Đối thoại chuyên sâu tư vấn, giải đáp vướng mắc pháp luật cho Doanh nghiệp nhỏ và vừa 2023” vào ngày 16/06/2023 tại TP.HCM. Toạ đàm này hứa hẹn giải toả được phần nào những trăn trở, băn khoăn trong giai đoạn hiện nay…
Theo dự kiến, tại toạ đàm lần này, Ông Hồ Minh Sơn – Chủ tịch Hội đồng Quản lý IRLIE, Viện trưởng Viện IMRIC đưa ra nhiều vấn đề và 5 xu hướng tăng trưởng cho mô hình doanh nghiệp vừa và nhỏ trong năm 2023, điển hình: Các doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể giành phần thắng trong cuộc chiến săn lùng nhân tài; Thu hẹp khoảng cách về khoa học công nghệ kỹ thuật nhằm củng cố ưu thế cạnh tranh cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ; Các doanh nghiệp vừa và nhỏ nên đặt uy tín và độ bảo mật cao là mục tiêu hàng đầu; Số hóa doanh nghiệp trên mọi phương diện là một tài sản quan trọng của các doanh nghiệp vừa và nhỏ; Khả năng nắm bắt xu hướng là chìa khóa trong môi trường nhiều biến động.
Tuy nhiên, các doanh nghiệp nhỏ và vừa vẫn còn một số hạn chế nhất định như: trình độ công nghệ lạc hậu, mô hình quản trị doanh nghiệp còn yếu, năng suất lao động thấp, kém minh bạch về thông tin,…Những nhược điểm này phần nào đã hạn chế khả năng tiếp cận những nguồn vốn trên thị trường tài chính của các doanh nghiệp nhỏ và vừa như: phát hành chứng khoán, tìm kiếm nguồn vốn từ đối tác chiến lược, thu hút vốn từ các quỹ đầu tư… Đặc biệt, nguồn vốn trung và dài hạn đáp ứng nhu cầu đầu tư mở rộng kinh doanh của các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Điều này, một mặt, sẽ gây cản trở cho quá trình phát triển bền vững của các doanh nghiệp nhỏ và vừa, mặt khác, cũng gây ra những áp lực về thanh khoản cho hệ thống các tổ chức tín dụng. Vì vậy, trong bài tham luận này, ông Hồ Minh Sơn đưa ra một số nghiên cứu thực trạng các kênh huy động vốn tại Việt Nam trong thời gian qua để từ đó đưa ra một số hàm ý chính sách nhằm nâng cao khả năng tiếp cận các nguồn vốn khác trên thị trường tài chính cho doanh nghiệp nhỏ và vừa thời gian sắp tới.
- Một số giải pháp:
Đại dịch Covid-19 bùng phát và lan rộng trên khắp toàn cầu, tác động mạnh mẽ và làm suy thoái nền kinh tế thế giới. Không ngoại lệ, nền kinh tế Việt Nam cũng chịu nhiều tổn thất nặng nề trên nhiều phương diện, nhất là khu vực DN. Trong giai đoạn phục hồi và phát triển, nhằm giúp DN Việt Nam tiếp cận hiệu quả các kênh dẫn vốn, đầu tư phát triển SXKD, cần phải có sự chung tay vào cuộc của nhiều bên để đạt được mục tiêu hỗ trợ cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa, cụ thể:
Thứ nhất, đối với các cơ quan quản lý
– Trong giai đoạn phục hồi và phát triển, các doanh nghiệp Việt Nam đang có xu hướng tiếp cận các kênh huy động vốn phi ngân hàng như: thị trường chứng khoán, thị trường trái phiếu và kể cả các kênh phi truyền thống khác như huy động vốn cộng đồng, huy động vốn bằng hình thức thuê tài chính, huy động từ tín dụng thương mại… Trong đó, hình thức gọi vốn cộng đồng hay gọi vốn thông qua tiền mã hóa ngày càng trở nên phổ biến và đa dạng về hình thức. Do vậy, các cơ quan quản lý cần xây dựng các chính sách vĩ mô hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận hiệu quả các nguồn vốn trên. Theo đó, cần có lộ trình, giải pháp khuyến khích đồng bộ các thị trường tài chính, đa dạng hóa các kênh huy động vốn trong nên kinh tế; Hạn chế sử dụng các biện pháp hành chính trong điều hành lãi suất, để đảm bảo lãi suất trong nền kinh tế vận động theo cơ chế thị trường…Cùng với đó, ngân hàng nhà nước tiếp tục cung ứng vốn qua nghiệp vụ thị trường mở và nghiệp vụ tái cấp vốn để hỗ trợ thanh khoản cho các ngân hàng thương mại, điều hành chính sách tiền tệ linh hoạt để điều tiết vốn từ nơi thừa sang nơi thiếu nhằm tạo điều kiện tối đa để doanh nghiệp có thể tiếp cận được vốn vay.
– Tiếp tục phát huy những thành quả mà hệ thống TCTD đã đạt được trong lĩnh vực cung ứng vốn cho các DNNVV trong giai đoạn vừa qua. Khuyến khích các TCTD không ngừng phát triển những sản phẩm tín dụng mới phù hợp với đặc điểm kinh doanh của các DNNVV như cho vay theo chuỗi cung ứng, cho vay dựa vào động sản là hàng hoá luân chuyển trong quá trình sản xuất kinh doanh, cho vay dựa vào dòng tiền,… để hỗ trợ vốn cho các DNNVV.
– Cần nghiên cứu và tạo điều kiện cho sự phát triển của những loại hình định chế tài chính trung gian mới như: Ngân hàng đầu tư, Quỹ đầu tư mạo hiểm, Quỹ đầu tư DNNVV. Kinh nghiệm cho thấy, tại các thị trường tài chính phát triển, các loại hình định chế tài chính trung gian phi ngân hàng phát triển rất mạnh, và là nơi thu xếp vốn chủ yếu cho các Starup và những DNNVV mới thành lập trong những lĩnh vực sáng tạo cao, đột phá. Bằng cách phát triển các loại hình định chế tài chính trung gian nêu trên, chúng ta sẽ tạo điều kiện kết nối trực tiếp những ý tưởng kinh doanh mới của các DN khởi nghiệp với các nhà đầu tư trên thị trường tài chính từ đó giải quyết bài toán vốn cho các DNNVV.
– Phát huy hơn nữa vai trò huy động vốn của thị trường chứng khoán trong việc cung ứng vốn trung dài hạn cho các DNNVV. Đặc biệt, cần đẩy mạnh quá trình phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp bởi lẽ hiện nay có rất ít DN đang khai thác kênh vốn này và vì vậy dư địa phát triển của thị trường trái phiếu DN là còn rất lớn nếu chúng ta biết khai thác đúng cách. Cụ thể, các cơ quan quản lý Nhà nước có thể nghiên cứu xem xét:
(+) Phối hợp với Trung tâm Thông tin tín dụng để thành lập các tổ định mức tín nhiệm doanh nghiệp nhằm cung cấp thông tin cho quá trình đánh giá và đầu tư trái phiếu của các DNNVV phát hành;
(++) Có chính sách thu hút các nhà đầu tư trái phiếu doanh nghiệp bằng cách miễn thuế thu nhập đối với hoạt động đầu tư trái phiếu doanh nghiệp;
(+++) Trong giai đoạn đầu áp dụng, có chính sách ưu đãi thuế thu nhập DN đối với các DN sử dụng nợ bằng cách phát hành và niêm yết trái phiếu trên sở giao dịch.
Thứ hai, đối với các tổ chức tín dụng
Các tổ chức tín dụng tiếp tục xây dựng chính sách tín dụng phù hợp đối với từng loại hình doanh nghiệp. Đồng thời, nâng cao hiệu quả kiểm tra, giám sát sử dụng vốn vay của doanh nghiệp sau khi giải ngân; Tăng cường quản lý rủi ro, quản lý nợ xấu… Đồng thời, phân tích và đánh giá chính xác mức sinh lời của doanh nghiệp để từ đó xác định mức lãi suất cho vay hợp lý, đảm bảo đôi bên cùng phát triển.Các tổ chức tín dụng cần nâng cao khả năng dự báo và thực hiện tốt vai trò tư vấn về lãi suất cho vay đối với khách hàng để giúp doanh nghiệp phòng ngừa và hạn chế rủi ro. Đồng thời, thường xuyên và kịp thời thực hiện các chính sách ưu đãi, chia sẻ khó khăn về lãi suất với các khách hàng. Xem xét, đẩy mạnh việc cho vay thông qua tín chấp, đánh giá hiệu quả và lợi nhuận của các dự án đầu tư để cấp vốn cho các doanh nghiệp. Chủ động đánh giá lại các khoản nợ, gia hạn nợ, đáo nợ, cùng doanh nghiệp tháo gỡ khó khăn, phục hồi sản xuất. Cơ cấu lại nợ, giãn nợ, ưu đãi tín dụng cho doanh nghiệp, nếu doanh nghiệp chứng minh được các nguồn thu để trả nợ ngân hàng; Phát triển hình thức thuê tài chính để giúp doanh nghiệp nhanh chóng đổi mới công nghệ…
Thứ ba, đối với các doanh nghiệp
– Các DNNVV cần phải khắc phục tình trạng kém minh bạch thông tin của mình để xây dựng niềm tin với không chỉ các TCTD mà còn với các nhà đầu tư tài chính, các quỹ đầu tư chứng khoán và các định chế tài chính trung gian khác. Khi các nhà đầu tư trên thị trường tài chính có đầy đủ thông tin phục vụ cho việc quản trị rủi ro, họ sẽ mạnh dạn đầu tư vào các chứng khoán do DNNVV phát hành, qua đó tạo vốn cho các DNNVV, giúp các DNNVV từng bước đa dạng hoá được các nguồn vốn phục vục cho quá trình phát triển của mình.
– Các DNNVV cần tích cực thay đổi tư duy quản lý, thay đổi mô hình hoạt động, không ngừng nâng cao kiến thức về quản trị kinh doanh, kiến thức về pháp luật, về công nghệ thông tin, nâng cao năng lực cạnh tranh để từng bước tiếp cận và khai thác các nguồn vốn nhàn rỗi khác trên thị trường tài chính.
– Các doanh nghiệp sớm hoàn thiện cơ chế quản lý, kế hoạch kinh doanh, tài chính, đầu tư công nghệ, nâng cao trình độ quản lý để tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm; Lựa chọn các phương án kinh doanh hiệu quả, tập trung vào các lĩnh vực sản xuất kinh doanh chủ chốt, có thế mạnh, có khả năng tạo ra dòng tiền bền vững không đầu tư dàn trải, mạo hiểm; Thực hiện nghiêm túc chế độ kế toán cho doanh nghiệp.Đặc biệt, các doanh nghiệp cũng cần quan tâm đến công tác phân tích, lập kế hoạch, chiến lược kinh doanh, tăng cường quản lý tài chính… vừa chủ động tìm kiếm, nắm bắt, hiện thực hóa cơ hội, đồng thời củng cố các điều kiện để tiếp cận các nguồn vốn vay.Đồng thời, các doanh nghiệp cần đổi mới hệ thống quản trị nội bộ. Minh bạch vấn đề tài chính để sử dụng hiệu quản nguồn lực, giảm thiểu chi phí, rủi ro cho cả doanh nghiệp và ngân hàng, tạo lòng tin trên thị trường… Chủ động trong việc xây dựng dự án, phương thức đầu tư phù hợp với năng lực về vốn, công nghệ và con người. Tích cực tham gia các hiệp hội doanh nghiệp để tiếp cận thông tin về các chính sách, chương trình hỗ trợ đối với doanh nghiệp của Chính phủ, Nhà nước cũng như các tổ chức tín dụng.
- Một số đề xuất về hỗ trợ DNNVV trong lĩnh vực huy động vốn:
Thứ nhất, cần rà soát hệ thống luật pháp để hoàn thiện cơ chế, chính sách tạo sự đồng bộ, đảm bảo tính thực thi, nhằm khuyến khích các DNNVV hình thành và phát triển. Sớm ban hành văn bản liên quan đến các quy định về kinh phí, hồ sơ để xác nhận các kết quả khoa học công nghệ do doanh nghiệp tự đầu tư cho hoạt động R&D.
Thứ hai, trong bối cảnh phục hồi và phát triển, startup khoa học công nghệ cần tăng cường tìm kiếm và tiếp cận các nguồn vốn giá rẻ từ các chương trình, dự án ưu đãi của các tổ chức trong và ngoài nước để tài trợ cho các lĩnh vực kinh doanh đặc thù được Chính phủ, Nhà nước chú trọng phát triển.
Thứ ba, rà soát tổ chức lại hệ thống đơn vị quản lý nhà nước về doanh nghiệp, phân định chức năng nhiệm vụ cho rõ ràng và phù hợp. Đồng thời, thiết lập tổ chức đầu mối ở trung ương và địa phương với các chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, đảm bảo đủ điều kiện và năng lực giải quyết kịp thời những khó khăn, vướng mắc cho các DNNVV. Tổ chức đầu mối cần đẩy nhanh tiến độ thực hiện chuyển đổi các tổ chức khoa học công nghệ công lập sang cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm, hoặc chuyển sang thành lập các DNNVV theo quy định của Thủ tướng Chính phủ. Ngoài ra, tổ chức đầu mối này còn giữ vai trò tích cực trong việc tạo ra các kết nối giữa doanh nghiệp, viện nghiên cứu/trường đại học để hỗ trợ cho quá trình đổi mới công nghệ của các doanh nghiệp.
Mặt khác, tổ chức các diễn đàn/hội thảo để kết nối doanh nghiệp với các quỹ đầu tư nội địa và quốc tế nhằm cung cấp thông tin cho 2 bên, tăng cơ hội cho doanh nghiệp khởi nghiệp trở thành đối tượng đầu tư của các đối tác lớn này, đồng thời, giúp doanh nghiệp dễ dàng tiếp cận với nguồn vốn tài trợ từ các quỹ hơn.
Thứ tư, xây dựng hệ thống công nghệ thông tin liên kết với các DNNVV, triển khai và cung cấp các giải pháp quản lý dòng tiền (như quản lý khoản phải thu, khoản phải trả, sao kê, báo cáo dòng tiền,…), để cho phép các doanh nghiệp có thể tự giao dịch với chi phí thấp, giúp các doanh nghiệp nâng cao năng lực quản lý tài chính, đáp ứng các điều kiện khi tham gia các chuỗi cung ứng của các đối tác lớn trong và ngoài nước.
Thứ năm, Các Bộ, ngành có liên quan theo từng ngành nghề kinh doanh cần có sự phối hợp để tổ chức các chương trình đào tạo chung, cũng như các chương trình đào tạo riêng mang tính đặc thù cho từng ngành nghề, để nâng cao năng lực chuyên môn, cung cấp thông tin thị trường vĩ mô cũng như các thông tin liên quan đến định hướng của Chính phủ, thông tin về các chương trình vay vốn, yêu cầu và cách thức để xây dựng hồ sơ tiếp cận vốn thông qua các kênh khác nhau. Bên cạnh đó, cần xây dựng Cổng thông tin quốc gia về hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp, để doanh nghiệp có thể dễ dàng tiếp cận thông tin liên quan đến các chương trình hỗ trợ.
Thứ sáu, sớm hình thành Quỹ Đầu tư mạo hiểm theo Luật CNC, khuyến khích, thu hút các Quỹ Đầu tư mạo hiểm nước ngoài hoạt động tại Việt Nam nhằm hỗ trợ kịp thời cho quá trình đổi mới. Triển khai nghiên cứu thí điểm về loại hình cổ phiếu công nghệ, sớm đưa loại hình cổ phiếu này trở thành hàng hóa giao dịch trên thị trường, giúp hình thành nguồn vốn mới, tạo động lực cho sự phát triển.
Thứ bảy, nghiên cứu, xây dựng mô hình ươm tạo doanh nghiệp phù hợp với điều kiện của địa phương. Một trong những mô hình cần được xem xét là thiết lập vườn ươm doanh nghiệp trong từng vùng để hỗ trợ cho doanh nghiệp đầu tư phát triển công nghệ mới trong vùng.
Văn Hải