(CSPLO) – Hậu Covid-19, cộng đồng doanh nghiệp nhất là các doanh nghiệp nhỏ và vừa sẽ gặp khó khăn khi phục hồi và phát triển trở lại, trong đó vốn là chìa khóa quan trọng cho doanh nghiệp phục hồi và phát triển, có ảnh hưởng trực tiếp tới quá trình vận hành và kinh doanh của doanh nghiệp. Vì vậy,Viện Nghiên cứu Chính sách pháp luật&Kinh tế hội nhập (IRLIE), Viện Nghiên cứu Thị trường – Truyền thông Quốc tế (IMRIC) và Viện Khoa học Chính sách và Pháp luật (ILPS) chuẩnbị tổ chức Tọa đàm khoa học ““Đối thoại chuyên sâu tư vấn, giải đáp vướng mắc pháp luật cho Doanh nghiệp nhỏ và vừa 2023” vào ngày 16/06/2023 tại TP.HCM tới đây.
Theo đó, Ông Phạm Trắc Long – Phó Chánh Văn phòng Viện Nghiên cứu Thị trường – Truyền thông Quốc tế (IMRIC, Phó giám đốc Trung tâm tư vấn pháp luật Toàn Tâm (TTLCC) dự kiến sẽ có bài tham luận tại hội nghị…
- Pháp luật về cho vay của các tổ chức tín dụng:
Năm 1957, đối với loại cho vay ngắn hạn, ngành Ngân hàng chỉ được cho vay đôì với một số đối tượng. Ví dụ, cho vay các xí nghiệp công nghiệp quốc doanh theo 4 loại cho vay gồm: cho vay dự trữ vật tư trên mức tiêu chuẩn và các chi phí sản xuất theo mùa; cho vay để thanh toán; cho vay nhu cầu tạm thời và cho vay để sửa chữa lớn.
Hoặc, cho các nông trường quốc doanh theo 6 loại cho vay gồm: cho vay dự trữ vật tư theo mùa, cho vay chi phí về trồng trọt và chế biến, cho vay chi phí về chăn nuôi, cho vay nhu cầu tạm thòi, cho vay sửa chữa lớn và cho vay thanh toán.
Hoặc, cho vay mậu dịch quốc doanh theo 5 loại gồm: cho vay để dự trữ hàng hóa theo kế hoạch và luân chuyển hàng hóa, cho vay ứng trước tiền đặt mua hàng, cho vay về nhu cầu tạm thời, cho vay thanh toán và cho vay sửa chữa lớn. “Đơn vị mậu dịch phải thanh toán xong số nợ quá hạn rồi mới được xin vay khoản khác”. Vào thời gian này, ngành Ngân hàng chủ yếu cho vay theo kế hoạch và chỉ đạo của Nhà nước.
Từ tháng 01/1996 hoạt động cho vay của các tổ chức ngân hàng, tín dụng, công ty tài chính và hoạt động cho vay vốn của các cơ sở khác được pháp luật cho phép (trừ hoạt động kinh doanh cầm đồ) không phải nộp thuế doanh thu (nay là thuế giá trị gia tăng). (Khoản 4 Điều 2 Luật Thuế doanh thu năm 1990)
Luật Các tổ chức tín dụng năm 1997 (sửa đổi, bổ sung năm 2004) đã từng quy định: khách hàng vay vốn có quyền “khiếu nại, khởi kiện việc từ chối cho vay không có căn cứ” của tổ chức tín dụng. Điều này chỉ phù hợp với trường hợp cho vay theo chính sách, chứ không đúng với quan hệ tự nguyện giữa khách hàng và ngân hàng.
Từ tháng 10/2000 đến tháng 4/2011, pháp luật cho phép việc huy động vốn và cho vay bằng vàng. Trong giai đoạn 1998 – 2016, quy định về cho vay được gọi là quy chế, đồng thời ban hành một văn bản chung cho các lĩnh vực và thời hạn vay. Riêng Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN có hiệu lực kéo dài 15 năm do không được xử lý thay đổi kịp thời, với nhiều quy định trái luật và 5 lần sửa đổi, bổ sung.
Các tổ chức được phép hoạt động cho vay chuyên nghiệp gồm: các tổ chức tín dụng (bao gồm các tổ chức do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cấp phép là ngân hàng thương mại, ngân hàng chính sách xã hội, ngân hàng hợp tác xã, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính, quỹ tín dụng nhân dân và tổ chức tài chính vi mô); các tổ chức khác không phải là tổ chức tín dụng nhưng cũng được phép hoạt động cho vay chuyên nghiệp như Ngân hàng phát triển Việt Nam (VDB), quỹ đầu tư phát triển địa phương (Bộ Tài chính quản lý); dịch vụ cầm đồ (Bộ Công an quản lý về điều kiện kinh doanh).
Trước năm 2005, khách hàng vay vốn của các tổ chức tín dụng, ngoài cá nhân và pháp nhân, còn có hộ gia đình, tổ hợp tác, doanh nghiệp tư nhân và công ty hợp doanh (tại thời điểm đó chưa có tư cách pháp nhân). Từ năm 2005 trở đi, Ngân hàng Nhà nước chỉ quy định, khách hàng vay vốn là cá nhân và pháp nhân (khoản 1 Điều 1 quyết định 127/2005/QĐ-NHNN), tuy nhiên trên thực tế vẫn xảy ra hiện tượng cho vay cả các tổ chức không có tư cách pháp nhân.
Từ ngày 15/3/2017, khách hàng vay vốn tại tổ chức tín dụng chỉ gồm hai nhóm là pháp nhân và cá nhân (khoản 3 Điều 2 Thông tư 39/2016/TT-NHNN). Điều này là hoàn toàn phù hợp với quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015, chủ thể giao dịch dân sự chỉ còn pháp nhân và cá nhân. Trường hợp hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân tham gia quan hệ dân sự thì các thành viên của hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân là chủ thể tham gia xác lập, thực hiện giao dịch dân sự hoặc ủy quyền cho người đại diện tham gia xác lập, thực hiện giao dịch dân sự.
Tuy nhiên, bên cạnh quy định trên của Bộ luật Dân sự năm 2015 còn rất nhiều đạo luật và văn bản dưới luật hiện hành quy định về tư cách pháp lý và việc tham gia vào giao dịch của các chủ thể là hộ gia đình, hộ kinh doanh, doanh nghiệp tư nhân, v.v… Vì vậy, cách xử lý hợp lý nhất là vẫn ghi đúng tên gọi của các chủ thể này là các tổ chức đã được pháp luật thừa nhận, nhưng bản chất quan hệ thì phải xử lý với tư cách của một hoặc toàn bộ các cá nhân trong tổ chức. Theo đó doanh nghiệp tư nhân và các tổ chức chỉ có một cá nhân cũng như hộ gia đình hay hộ kinh doanh chỉ có một thành viên thì cả hình thức và nội dung pháp lý vẫn không có gì thay đổi so với trưóc đó. Bằng chứng là từ trước đến nay pháp luật đều quy định chủ doanh nghiệp tư nhân là người đại diện theo pháp luật, là nguyên đơn hoặc bị đơn tham gia tố tụng và phải chịu trách nhiệm đến cùng (trách nhiệm vô hạn) đối với nghĩa vụ của doanh nghệp tư nhân.
- Pháp luật về điều kiện cho vay
Khác với pháp luật dân sự, thương mại nói chung, pháp luật ngân hàng quy định khá chặt chẽ về điều kiện cho vay của các tổ chức tín dụng. Vì việc cho vay của ngân hàng giống như việc bán chịu hàng hóa, đôi khi được ví như cầm dao đằng lưỡi, có nhiều rủi ro ảnh hưởng đến an toàn hệ thống ngân hàng.
2.1. Pháp luật về chủ thể vay
Năm 1992, để đề phòng rủi ro, bên vay vốn của các ngân hàng bảo đảm giá trị theo giá vàng là các tổ chức kinh tế cần mua bảo hiểm nhà nước. (Điều 9 Quyết định số 42/QĐ-NH1). Ngân hàng Nhà nước cũng đã giải thích, khách hàng vay vốn tại tổ chức tín dụng chỉ là pháp nhân, cá nhân. Đối với tổ chức không có tư cách pháp nhân như tổ hợp tác, hộ gia đình, doanh nghiệp tư nhân thì tổ chức tín dụng xem xét cho vay đối với cá nhân (một hoặc một số cá nhân).
Việc cho vay phục vụ nhu cầu đời sống của tổ chức tín dụng nhằm thanh toán các chi phí cho mục đích tiêu dùng, sinh hoạt của cá nhân vay vốn và có thể gồm cả gia đình của cá nhân vay vốn. Trong trường hợp này, gia đình của người vay vốn được xác định là tập hợp những người gắn bó với nhau do hôn nhân, quan hệ huyết thống hoặc quan hệ nuôi dưỡng, làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ giữa họ với nhau theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình. (khoản 2 Điều 3 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014)
2.2. Nguyên tắc cho vay và vay vốn
Pháp luật quy định nguyên tắc cho vay và vay vốn, từ cả hai phía là tổ chức tín dụng và khách hàng như sau:
Thứ nhất, hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng được thực hiện theo thỏa thuận giữa hai bên, phù hợp vói quy định của pháp luật có liên quan, bao gồm cả pháp luật về bảo vệ môi trường. Pháp luật gần như không hạn chế mọi cá nhân, doanh nghiệp, pháp nhân giao dịch, đặc biệt là vay vốh ngân hàng. Vì vậy, ngân hàng dù không muốn vẫn phải nắm bắt, thẩm định và kiểm soát việc thực thi đúng các quy định pháp luật trong mọi lĩnh vực, ngành nghề liên quan để bảo đảm an toàn cao nhất tiền cho vay của mình và tiền gửi của công chúng;
Thứ hai, khách hàng vay vốn tổ chức tín dụng phải bảo đảm sử dụng vốn vay đúng mục đích, hoàn trả nợ gốc và lãi tiền vay đúng thòi hạn đã thỏa thuận với tổ chức tín dụng.
2.3. Điều kiện xét duyệt vay vốn
Pháp luật ngân hàng quy định, tổ chức tín dụng xem xét, quyết định cho vay khi khách hàng có đủ các điều kiện sau đây: (Điều 7, khoản 2 Điều 13 Thông tư 39/2016/TT-NHNN): Thứ nhất, khách hàng là pháp nhân có năng lực pháp luật dân sự theo quy định của pháp luật. Khách hàng là cá nhân từ đủ 18 tuổi trở lên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ theo quy định của pháp luật hoặc từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi không bị mất hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự theo quy định của pháp luật; Thứ hai, nhu cầu vay vốn để sử dụng vào mục đích hợp pháp (được hiểu là không phải là bất hợp pháp);Thứ ba, có phương án sử dụng vốn khả thi; Thứ tư, có khả năng tài chính để trả nợ; Thứ năm, có tình hình tài chính minh bạch, lành mạnh theo đánh giá của tổ chức tín dụng, trong trường hợp khách hàng vay vốn ngắn hạn bằng đồng Việt Nam được hưởng mức ưu đãi về lãi suất không vượt quá mức lãi suất cho vay tối đa do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quyết định trong từng thời kỳ nhằm đáp ứng một số nhu cầu vốn sau đây:
Cụ thể, phục vụ lĩnh vực phát triển nông nghiệp, nông thôn theo quy định của Chính phủ về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn; Thực hiện phương án kinh doanh hàng xuất khẩu theo quy định tại Luật Thương mại và các văn bản hướng dẫn Luật Thương mại; Phục vụ kinh doanh của doanh nghiệp nhỏ và vừa theo quy định của Chính phủ về trợ giúp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa; Phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ theo quy định của Chính phủ về phát triển công nghiệp hỗ trợ; Phục vụ kinh doanh của doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao theo quy định tại Luật Công nghệ cao và các văn bản hướng dẫn Luật Công nghệ cao.
Khách hàng vay vốn phải đáp ứng đầy đủ các điều kiện vay vốn, đồng thời phải cung cấp cho tổ chức tín dụng các tài liệu chứng minh đủ điều kiện vay vốn và các tài liệu khác do tổ chức tín dụng hướng dẫn, kể cả cho vay vốh cầm cố bằng tiền gửi tiết kiệm, vì cầm cố tiền gửi tiết kiệm để vay vôn là một biện pháp bảo đảm tiền vay theo quy định của pháp luật.
Như vậy, khi có nhu cầu vay vốn khách hàng không còn phải gửi cho các tổ chức tín dụng “Giấy đề nghị vay vốn” như quy định trong nhiều năm trước kia.
Tổ chức tín dụng căn cứ vào phương án sử dụng vốn, khả năng tài chính của khách hàng, các giới hạn cấp tín dụng và khả năng nguồn vốn để thỏa thuận với khách hàng về mức cho vay (Điều 12 Thông tư 39/2016/TT-NHNN). Các tổ chức tín dụng phải tuân thủ quy định về việc giải ngân không dùng tiền mặt (Thông tư số 21/2017/TT-NHNN). Việc áp dụng biện pháp bảo đảm tiền vay hoặc không áp dụng biện pháp bảo đảm tiền vay do tổ chức tín dụng và khách hàng thỏa thuận phù hợp với quy định của pháp luật về biện pháp bảo đảm và pháp luật có liên quan. Tổ chức tín dụng quyết định và chịu trách nhiệm về việc cho vay không áp dụng biện pháp bảo đảm tiền vay.
- Tổ chức tín dụng cho vay có quyền, nghĩa vụ
– Yêu cầu bên bảo đảm bằng tín chấp phối hợp trong việc kiểm tra sử dụng vốn vay và đôn đốc trả nợ;
– Phối hợp với bên bảo đảm bằng tín chấp trong việc cho vay và thu hồi nợ;
– Quyền, nghĩa vụ khác theo thỏa thuận hoặc do Bộ luật Dân sự, luật khác liên quan quy định.
- Một số lưu ý khi doanh nghiệp vay tiền của các tổ chức tín dụng:
– Xem xét cẩn trọng các điều khoản của Hợp đồng tín dụng. Yêu cầu cán bộ ngân hàng hướng dẫn, giải thích các quy định trong Hợp đồng tín dụng nếu chưa hiểu rõ nội dung.
– Không nên giao dịch, làm việc bên ngoài văn phòng của tổ chức tín dụng.
– Không ký vào văn bản mà chưa có đầy đủ nội dung.
– Lưu ý các lời cam đam, bảo đảm của bên vay và phải đảm bảo và chịu trách nhiệm về việc cung cấp thông tin cho tổ chức tín dụng là chính xác, trung thực, đầy đủ.
– Bên vay là doanh nghiệp cần lưu ý kiểm tra quy định nội bộ của doanh nghiệp đó và pháp luật liên quan về các quy định cho vay.
– Sử dụng vốn vay đúng mục đích cũng như lưu ý về thời hạn cho vay, lãi suất áp dụng để đảm bảo đưa ra mức lãi suất đúng quy định cũng như để cân đối nguồn tiền trả nợ, đảm bảo thời hạn trả nợ, tránh việc phát sinh khoản nợ quá hạn.
- Thực trạng huy động vốn từ vay các tổ chức tín dụng của DNNVV
Doanh nghiệp nhỏ và vừa là bộ phận trong thành phần kinh tế tư nhân, có vai trò quan trọng trong sự phát triển của nền kinh tế, được Đảng và Nhà nước quan tâm ưu tiên phát triển. Thời gian qua, trên cơ sở bám sát các Nghị quyết của Quốc hội, chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước đã ban hành, triển khai nhiều chính sách về tiền tệ, tín dụng và hoạt động ngân hàng tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp nhỏ và vừa tiếp cận vốn”.
Theo thống kê của Vụ Tín dụng các ngành kinh tế, bình quân giai đoạn 2018-2022, dư nợ tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa tăng 14,17%, cao hơn bình quân chung toàn nền kinh tế. Đến cuối năm 2022, dư nợ tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa tăng 8,28% so với cuối năm 2021, chiếm khoảng gần 19% tổng dư nợ tín dụng chung toàn nền kinh tế.
Trong đó, dư nợ tín dụng doanh nghiệp nhỏ và vừa phần lớn tập trung vào khu vực thương mại và dịch vụ (56,29%), công nghiệp và xây dựng (40,85%).
Các ngân hàng thương mại Nhà nước đang đi đầu trong cho vay doanh nghiệp nhỏ và vừa, chiếm 48,05% tổng dư nợ. Khối ngân hàng thương mại cổ phần cho vay chiếm 47,43%. Khối ngân hàng nước ngoài, liên doanh, công ty tài chính và ngân hàng hợp tác xã tham gia cho vay 4,52%.
Tại hội nghị, các tổ chức tín dụng và chuyên gia đã chỉ ra một số điểm mà doanh nghiệp nhỏ và vừa cần khắc phục để dễ dàng tiếp cận vốn tín dụng.
Theo Ngân hàng Nhà nước, giai đoạn 2018-2022, dư nợ tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa tăng 14,17%, cao hơn bình quân chung toàn nền kinh tế.
Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, trên 65% doanh nghiệp cả nước hiện nay là doanh nghiệp siêu nhỏ. Quy mô vốn, vốn chủ sở hữu, năng lực tài chính, trình độ quản trị của những doanh nghiệp này còn hạn chế. Đáng nói hơn cả, nhiều doanh nghiệp có số liệu tài chính thiếu minh bạch, chính xác, thiếu tài sản bảo đảm. Phần lớn doanh nghiệp nhỏ và vừa không có báo cáo tài chính được kiểm toán, báo cáo thuế lại có sự khác biệt với báo cáo tài chính nội bộ, chứng từ kế toán không đáp ứng các chuẩn mực theo quy định nên ngân hàng khó xem xét cấp tín dụng.
Đa số các doanh nghiệp nhỏ và vừa khó khăn trong việc tiếp cận vốn tín dụng là các doanh nghiệp mới thành lập, mới gia nhập các ngành, lĩnh vực kinh tế mới. Do đó, tổ chức tín dụng không có dữ liệu lịch sử hoạt động, không thể thực hiện xếp hạng tín nhiệm khi thẩm định, đánh giá khả năng trả nợ của doanh nghiệp. Các tổ chức tín dụng khó khăn trong việc quản lý dòng tiền do nhiều doanh nghiệp nhỏ và vừa chưa có sự hợp tác chặt chẽ với ngân hàng.
Doanh nghiệp nhỏ và vừa trong thời gian qua đã từng bước phục hồi sản xuất kinh doanh nhưng đến nay nhiều doanh nghiệp vẫn chưa đủ khả năng trả nợ hết các khoản nợ đã được cơ cấu lại và khoản nợ đến hạn; mặc dù được các ngân hàng thực hiện cơ cấu lại thời hạn trả nợ theo quy định thông thường nhưng vẫn gặp nhiều khó khăn do bị chuyển nhóm nợ, nên khó tiếp cận vốn vay để phục vụ sản xuất kinh doanh; hàng tồn kho chiếm tỷ trọng lớn trong kho không xuất được; bị khách hàng chiếm dụng vốn, công nợ cao….
Cộng đồng này cũng hạn chế về kỹ năng hoạch định, xây dựng phương án sản xuất kinh doanh nên các phương án sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp thường thiếu tính khả thi và chưa có kế hoạch ứng phó với biến động thị trường, đặc biệt trong giai đoạn vừa qua nền kinh tế chịu nhiều tác động của đại dịch Covid-19. Đa phần các doanh nghiệp chưa nhận thức được tầm quan trọng của công tác lập dự án kinh doanh, chỉ coi công tác lập dự án là thủ tục để huy động vốn.
Cuối cùng, doanh nghiệp nhỏ và vừa thường gặp khó khăn, vướng mắc pháp lý đối với tài sản thế chấp, vướng mắc tài sản là hợp đồng thế chấp tại khu công nghiệp; tình trạng quy hoạch treo, công trình trên đất không có giấy phép xây dựng hoặc chưa hoàn công…dẫn đến không đáp ứng được điều kiện vay vốn.
Trong khi đó, các ngân hàng đang ngày càng đẩy mạnh áp dụng các chuẩn mực quản trị rủi ro theo thông lệ quốc tế, đòi hỏi ngày càng cao tính minh bạch về thông tin, tài chính, tài sản bảo đảm của khách hàng. Do đó, các ngân hàng cho biết không thể thực hiện các giải pháp về “hạ chuẩn” điều kiện cấp tín dụng.
- Giải pháp huy động vốn từ vay các tổ chức tín dụng của DNNVV
Hiện nay, các DNNVV rất hạn chế về vốn, công nghệ, nguồn nhân lực, kỹ năng quản trị và tiếp thị, thậm chí còn kinh doanh theo kinh nghiệm hay chụp giật. Điều này khiến cho khối DNNVV chỉ đông về số lượng, nhưng chất lượng, hiệu quả kinh doanh, khả năng cạnh tranh không cao.
Trên thực tế, không một doanh nghiệp nào có thể đảm bảo đủ 100% vốn cho nhu cầu sản xuất kinh doanh. Vốn tín dụng của ngân hàng đã tạo điều kiện cho các doanh nghiệp đầu tư xây dựng cơ bản, mua sắm máy móc thiết bị cải tiến phương thức kinh doanh. Từ đó góp phần thúc đẩy tạo điều kiện cho quá trình phát triển sản xuất kinh doanh được liên tục.
Khi sử dụng vốn tín dụng ngân hàng, các doanh nghiệp phải đảm bảo hoàn trả cả gốc lẫn lãi đúng hạn và tôn trọng các điều khoản của hợp đồng, cho dù doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả hay không. Do đó, đòi hỏi các doanh nghiệp phải tìm cách sử dụng vốn có hiệu quả, tăng nhanh chóng vòng quay vốn, đảm bảo tỉ suất lợi nhuận phải lớn hơn lãi suất ngân hàng thì mới trả được nợ và kinh doanh có lãi.
6 rào cản tiếp cận tín dụng
Mặc dù các ngân hàng cũng có nhiều giải pháp hỗ trợ cho các DNNVV. Mặc dù vậy, khả năng hấp thụ các nguồn vốn tín dụng ngân hàng chưa được cao. Điều tra của Hiệp hội cho thấy, có 59% DNNVV bị các ngân hàng từ chối hoặc chỉ được giải ngân một phần.
Nguyên nhân chủ yếu là do tài sản thế chấp chưa đủ điều kiện và khả năng kinh doanh còn yếu kém. Các DNNVV vẫn còn rất hạn chế về vốn, công nghệ, nguồn nhân lực, kỹ năng quản trị và tiếp thị, thậm chí còn kinh doanh theo kinh nghiệm hay chụp giật.
Thứ nhất, nguồn ngân sách nhà nước hiện nay còn rất hạn chế. Một số chương trình, gói hỗ trợ chưa phát huy như công tác đào tạo, thị trường, giới thiệu về sản phẩm khoa học công nghệ, xúc tiến thương mại chưa được phát huy một cách tối đa.
Thứ hai, thông tin, tổ chức cung cấp thông tin về DNNVV còn hạn chế, chưa được minh bạch hóa.
Thứ ba, việc vay vốn của DNNVV dễ dẫn đến nợ xấu vì tài sản đảm bảo chưa thuyết phục. Do đó, DNNVV khó tiếp cận vốn vay ngân hàng.
Thứ tư, DNNVV chưa quan tâm đến đào tạo, tư vấn, thông tin từ các chương trình mà chủ yếu qua thông tin không chính thức, nên việc cập nhật chính sách còn hạn chế, dễ bị tác động bởi sự biến động môi trường.
Thứ năm, trình độ quản lý của các DNNVV còn yếu kém, công nghệ lạc hậu, thông tin kém minh bạch, khả năng đáp ứng đủ điều kiện hồ sơ vay vốn ngân hàng còn hạn chế. Nhiều DNNVV thiếu chiến lược kinh doanh, phương án kinh doanh chưa khả thi. Đặc biệt, DNNVV thường thiếu tài sản đảm bảo, chưa có thói quen mua bảo hiểm rủi ro, thiếu hiểu biết về cơ chế, chính sách, các gói tín dụng của các định chế tài chính, các chương trình bảo lãnh, hỗ trợ của Chính phủ/hiệp hội…
Thứ sáu, một số tổ chức tín dụng chưa mặn mà với các khách hàng DNNVV, do quy mô, hiệu quả tín dụng không cao, thời gian thẩm định lâu hơn, một phần do quy mô và hiệu quả tín dụng không cao, trong khi rủi ro và chi phí hoạt động cao.
Dưới góc độ của các tổ chức đại diện doanh nghiệp, để phá vỡ những rào cản và nâng cao khả năng tiếp cận vốn tín dụng, cần tiếp tục cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, hỗ trợ và tạo điều kiện phát triển doanh nghiệp.
Các tổ chức tín dụng tiếp tục rà soát để cải tiến thủ tục vay vốn nhằm tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho khách hàng, thực hiện các giải pháp tháo gỡ khó khăn trong quan hệ tín dụng giữa tổ chức tín dụng và doanh nghiệp; đồng thời chú trọng phát triển đa dạng các sản phẩm tín dụng đặc thù cho đối tượng DNNVV cũng như các sản phẩm về ngoại tệ, các công cụ phòng ngừa rủi ro lãi suất và tỉ giá nhằm giúp doanh nghiệp chủ động về vốn, tăng cường khả năng phòng ngừa rủi ro; đổi mới quy trình cho vay theo hướng đơn giản hóa thủ tục vay.
Trần Danh